DU LỊCH THANH TRÌ DU LỊCH THANH TRÌ

Đình Vĩnh Thịnh, xã Đại Áng, huyện Thanh Trì được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch thoả thuận Dự án tu bổ tôn tạo di tích
Ngày đăng 26/04/2024 | 09:00  | Lượt xem: 980

Đình Vĩnh Thịnh, xã Đại Áng, huyện Thanh Trì được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch thoả thuận Dự án tu bổ tôn tạo di tích

 

Ngày 19/4/2024 Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch thoả thuận Dự án tu bổ, tôn tạo di tích đình Vĩnh Thịnh với các nội dung: Tu bổ Đại bái; tôn tạo Hậu cung; cải tạo hạ tầng kỹ thuật. Tuy nhiên, Bộ văn hoá, Thể thao và Du lịch lưu ý:

          Về tổng thể:

Cần nghiên cứu kỹ khu vực không gian giữa Đại bái với hậu cung (vị trí Tờ trình số 31/TTr-UBND ngày 27/02/2024 của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội gọi là “ống muống”). Căn cứ Hồ sơ xếp hạng di tích để điều chỉnh thiết kế khu vực này, nếu nguyên bản đây là một sân dạng “thiên tỉnh” thì cần phục hồi cấu trúc mặt bằng đình (Tiền tế, Hậu cung) và hình thức kiến trúc Hậu cung theo đúng thông tin nêu trong Hồ sơ xếp hạng di tích.

 Không nâng nền vì ảnh hưởng đến các hạng mục Nghi môn, Tiến tế…

 Không sử dụng cột đèn nữ Hoàng chiếu sáng sân vườn

Đối với tu bổ Đại bái:

Bảo tồn, gìn giữ nguyên vẹn các cấu kiện gỗ còn tốt, gia cố, tu bổ cấu kiện gỗ hư hỏng một phần, chỉ thay thế các cấu kiện đã hư hỏng hoàn toàn khi có sự đồng ý của Hội đồng đánh giá di tích. Giữ nguyên toàn bộ cá cấu kiện gỗ có trang trí chạm khắc (cụ thể: không thay mới các đầu dư, cốn, vì nách…và các câu đầu, xà, bẩy, con chồng có mảng chạm), chỉ bảo quản và tu bổ, gia cố các cấu kiện này, không thay mới hay đục chạm lại theo mẫu cũ.

 Gông bó, hạ giải cẩn thận toàn bộ con giống trang trí bờ nóc, bờ chảy, cánh phong, câu đối, các đồ thờ…) để nghiên cứu sắp xếp, bài trí lại.

Về hồ sơ:

Bổ sung thiết kế nhà bao che, phương án bảo quản cấu kiện, thành phần kiến trúc, hiện vật của di tích

Chỉnh sửa các bản vẽ hiện trạng cho đúng thực tế, đảm bảo thống nhất giữa mặt bằng, mặt đứng, mặt cắt và các chi tiết.

Đình Vĩnh Thịnh còn có tên khác là đền Vĩnh Bảo, do xưa kia làng còn có tên là Vĩnh Bảo, huyện Long Đàm. Sau đổi là huyện Thanh Đàm. Ngôi đình được dựng ở giữa làng Vĩnh Thịnh, xã Đại Áng, huyện Thanh Trì, kiến trúc chính quay hướng tây nam. Phía trước đình là khoảng sân rộng, rồi đến một giếng tròn khá lớn có xây tường kè xung quanh.

 

Đình Vĩnh Thịnh đã được Bộ Văn hóa - Thông tin - Thể thao và Du lịch (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia năm 1991.

Đình Vĩnh Thịnh thờ Phạm Xạ đại vương làm Thành hoàng làng. Theo thần phả  còn lưu lại thì cha ông là Phạm Quảng, người ở huyện Thạch Thành,  phủ Kinh Môn, Hải Dương, vào khoảng cuối đời Trần đã đến lập nghiệp ở thôn Vĩnh Bảo và kết duyên cùng một người con gái họ Nguyễn.

          Ông sinh ngày 13 tháng 2 năm Bính Ngọ, được cha mẹ đặt là Phạm Xã. Đến năm 15 tuổi, Phạm Xã đã cao ngoài tám thước, mưu trí khác người, tinh thông bách gia chư tử, quán triệt tam lược lục thao, mọi người đều nể phục.

 Một hôm, vua Lê Lợi hành binh đuổi giặc Minh đi qua thôn Vĩnh Bảo đã đến nghỉ tại đền thờ Liễu Hạnh trong thôn, được bà mộng báo sẽ âm phù đánh giặc và tiến cử tướng tài. Sau đó nhà Vua đã tìm được và cho mời Phạm Xã đến yết kiến. Vua Thấy Xã sức vóc khỏe mạnh khác thường lại đúng là người đã gặp trong mộng. Hỏi về tài học thì ứng phó trôi chảy, khảo về võ nghệ thì môn nào cũng tinh thông.

Vua Lê vui mừng phong cho ông làm Vệ úy tiền quân đại tướng. Lại thưởng cho dân trong vùng 5000 quan tiền để tu tạo đền miếu. Ông Xã được lệnh vua, triệu tập dân chúng được 243 người , toàn là tráng sĩ, theo vua đánh giặc Minh, chừng 30 trận, lập nhiều chiến công. Khi Lê Lợi lên ngôi, Xã công được phong làm Thống chế tả quân. Ông tiếp tục được cử đi cai quản các đạo Tuyên Quang, châu Hoan hay cử đi dẹp yên Chiêm Thành... và đều làm tốt công việc được giao phó. Trong một lần dẹp loạn Chiêm Thành, do bắn trúng viên chính tướng, khiến giặc thua trận, ông được nhà vua phong là “Trang nhung nguyên soái, Thần xạ đại vương”. (Nguyên súy dẹp giặc, đại vương tài bắn như thần).Từ đó ông còn có tên là Phạm Xạ (chàng bắn giỏi họ Phạm).

Đất nước thanh bình, ông xin vua trở về thăm quê tại huyện Thạch Thành,  phủ Kinh Môn, Hải Dương, yết kiến nhà thờ họ, xây dựng từ đường và cùng nhân dân mở tiệc. Sau 3 tháng ông quay về Vĩnh Bảo mở yến tiệc tại nhà hội đồng, triệu tập dân làng cũng ăn uống vui vẻ. Trong lúc hoan hỷ ông làm bài thơ:

Bề tôi tráng sĩ từ xưa

Hiến thân giúp nước không từ gian truân

Cung đình Vĩnh Bảo ngàn xuân

Khói hương cùng với lòng dân dõi truyền.

 

 Đến sáng ông đã cùng các bô lão ra thăm cánh đồng nơi có thế đất “Rùa tắm nước”, phía ngoài có dải đất “Rắn vàng uốn khúc”, phía đông nam là thế đất “Ngựa trời quay đầu”, ứng với kiểu đất ở phía tây bắc “Chim phượng dấu cánh”. Phí trước có hai gò làm ẩn, phía sau có bốn ngôi sao vây quanh. Thế đất tầng tầng, lớp lớp bao bọc chỗ ông đứng.  Bỗng nhiên trời đất tối sầm, bốn phía gió mây nổi lên và ông hóa (Đúng vào ngày 10 tháng 11). Nhà vua thương tiếc, cho lập miếu thờ, chuẩn y dân Vĩnh Bảo là dân thang mộc ấp, ban 1.000 quan tiền, ba mẫu ruộng phục vụ tế tự, tước phong là Đương cảnh Thành hoàng Thần Xạ đại vương, sau lại phong thêm “Uy dũng hùng lược”. Các đời vua sau đều ban sắc phong. Ngày sinh, ngày hóa của thần tổ chức tế lễ thành kính.

Đình Vĩnh Thịnh là một tổng thể kiến trúc hài hòa, khép kín, đáp ứng được hai chức năng chính: vừa là nơi thờ tự, vừa là nơi hội họp của làng. Mở đầu kiến trúc là Nghi môn xây kiểu tứ trụ truyền thống nhưng chỉ có một lối đi giữa hai trụ lớn còn giữa trụ lớn với trụ nhỏ xây tường, đỉnh tường đắp mái giả ngói ống, mặt ngoài thân tường đắp hình hai võ tướng gác cửa.

          Phía ngoài Nghi môn, thẳng trên trục thần đạo là bức bình phong dạng cuốn thư làm tiền án, trên cuốn thư đắp nổi ba chữ Hán Thượng đẳng từ; bên trái cuốn thư là giếng đình. Sau Nghi môn là khoảng sân rộng của đình rồi đến đình chính với các tòa Tiền bái - Đại bái - Ống muống và Hậu cung. 

Tiền bái với kiến trúc kiểu chồng diêm, hai tầng tám mái lợp ngói ri nhỏ, bờ nóc đắp đôi rồng chầu mặt trời.

Đại bái là hạng mục kiến trúc có giá trị nhất của đình Vĩnh Thịnh. Công trình này gồm năm gian, xây kiểu tường hồi bít đốc tay ngai. Bộ khung kiến trúc kiểu bốn hàng chân, vì nóc kiểu giá chiêng - chồng rường cụt; vì nách kiểu ván mê chạm khắc trang trí rồng, phượng, hoa lá mang dấu ấn nghệ thuật đương thời. Giữa các cột cái sau đều có lắp các bộ cửa võng sơn son thếp vàng rực rỡ nhưng giá trị nhất là bộ cửa võng gian giữa với các mảng chạm khắc rồng, đao mác mang phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê thế kỷ XVIII...

Tòa Ống muống chỉ có một gian, còn giữ được hai cốn mê vì nách sát lối vào Hậu cung chạm rồng mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII. Cũng ở tòa Ống muống, phía trên bộ vì nóc trong treo bức hoành phi: Lê triều hiển thánh ( Bậc hiển thánh triều Lê).

Hậu cung đình Vĩnh Thịnh gồm ba gian cũng kiến trúc kiểu tường hồi bít đốc. Trải qua thời gian hậu cung bị xuống cấp nghiêm trọng đã được nhân dân sửa chữa lại bằng bêtông cốt thép, bộ vì đỡ mái kiểu vì kèo giả gỗ. Gian giữa Hậu cung là ban thờ Thành hoàng với khám thờ, ngai thờ cùng nhiều đồ tế tự. Phía trên khám thờ là bức hoành phi Tối linh từ được khảm trai cầu kỳ, tạo tác năm Thành Thái năm thứ 7 (1895).

Đình Vĩnh Thịnh hiện còn bảo lưu được nhiều di vật có giá trị lịch sử, văn hóa. Ngoài bia đá, đình còn giữ được hàng chục hoành phi, câu đối chủ yếu được làm cuối thời Nguyễn (cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX), các bát hương gốm, chóe gốm, kiệu thờ, ngai thờ, bài vị bằng gỗ...

Tuy nhiên, giá trị nhất là cuốn thần phả bằng giấy dó do Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572), cùng 14 đạo sắc phong, đạo có niên đại sớm nhất là Đồng Khánh năm thứ 2 (1887), đạo muộn nhất là Khải Định năm thứ 9 (1924).

                                                                                                                                                  Lại Thị Hồng Nguyên