KHÁM PHÁ - TRẢI NGHIỆM DU LỊCH KHÁM PHÁ - TRẢI NGHIỆM DU LỊCH

Đình, chùa Đại Lan – Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia
Publish date 03/02/2025 | 14:01  | Lượt xem: 264

Cụm di tích đình, chùa Đại Lan được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia vào năm 1989. Đây là điểm đến của nhiều du khách gần xa bởi những nét đặc sắc trong kiến trúc cũng như sự thân thiện, mến khách của người dân…

 

 

Đình, chùa Đại Lan (thôn Đại Lan, xã Duyên Hà, huyện Thanh Trì), được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII. Trước đây, cụm di tích ở sát bờ sông, trải qua thời gian, bờ sông bị xói lở nên dân làng chuyển vào vị trí hiện nay.

          Cụm di tích được xây dựng trên khu đất cao của xóm Nghè, phía đầu làng Đại Lan, gồm đình, nghè, và chùa để thờ thần, Phật theo tín ngưỡng tôn giáo truyền thống. Các hạng mục của kiến trúc được xây dựng sát nhau theo chiều ngang với ngôi chùa nằm ở bên cạnh đình, trông về hướng tây, phía sau là dòng sông Hồng.

          Đình Đại Lan

          Niên đại khởi dựng đầu tiên của những hạng mục kiến trúc này hiện nay chưa xác định rõ. Theo truyền thuyết và những di vật hiện còn tại di tích đã khẳng định niên đại ra đời của cụm di tích ở các thời Lê- Nguyễn. Tuy nhiên, xưa kia làng Đại Lan nằm sát sông Hồng, do sông Hồng thay đổi dòng chảy nhiều lần ảnh hưởng đến đời sống dân cư cũng như các công trình tôn giáo, tín ngưỡng nên làng dần dịch chuyển. Cứ mỗi lần di chuyển, các kiến trúc văn hóa, tôn giáo của làng lại theo chân con người đến nơi ở mới và lần dịch chuyển cuối vào năm 1959, các di tích được chuyển vào sâu trong xóm Nghè, tức vị trí hiện nay.

          Hiện nay, đình Đại Lan còn lưu giữ và bảo tồn được thần phả, sắc phong ghi chép về việc tôn thờ tứ vị thành hoàng làng gồm: ba vị Thành hoàng làng thời Hùng Vương có công trong việc bảo vệ nước Văn Lang và vị Thành hoàng là Bảng nhãn Nguyễn Như Đổ- người con của làng ở thời Lê Sơ cùng 18 vị khoa bảng ở địa phương và bà chúa Dâu Tằm. Xưa kia, mỗi vị đều có nơi thờ phụng riêng. Nhưng sau này, trải qua nhiều thời kỳ biến động, nên các vị Thành hoàng đã được nhân dân rước về thờ phụng tại đình và chùa.

          Theo thần phả, Thành hoàng làng Đại Lan thờ phụng là tam vị đại vương: Linh Hồ, Minh Chiêu và Chà Mục, sống dưới thời Hùng Vương. Từ nhỏ, ba vị đều thông minh, tài trí hơn người. Lớn lên đất nước có giặc Tây Thục xâm phạm, ba anh em đã theo Hùng Duệ Vương đi đánh giặc. Linh Hồ được phong là Tiền bộ tướng quân, Minh Chiêu là Tả bộ đô chiêu sứ, Chà Mục là Hữu bộ đô chiêu sứ. Sau ba ngài lập được công lớn, đánh tan giặc Thục, Tiền bộ được phong là Thiên sách Hữu lạc hầu. Sau ngày hóa, ba vị được phong là Thượng đẳng phúc thần ghi trong điển lễ. Các đời vua sau này đều có sắc phong.

          Nguyễn Như Đổ tên chữ là Mạnh An, hiệu Khiêm Trai, sinh năm Giáp Thìn 1424 tại thôn Đại Lan. Ông là người đức trọng, tài cao. Năm 18 tuổi, ông đỗ Bảng nhãn khoa thi Đình năm Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 (1442). Trong khoa thi này, ông đỗ cao thứ hai sau Trạng Nguyên Nguyễn Trực. Nguyễn Như Đổ đã ba lần đi sứ, làm quan đến chức Thượng thư, được gia phong Thiếu bảo Lan quận công. Cuối đời, Nguyễn Như Đổ về vị trí ở Từ Dương, thọ 102 tuổi.

          Bình luận về ông, nhà bác học Phan Huy Chú viết: “ Ông lúc trẻ thi đỗ Khôi nguyên, khi lớn làm quan to, nên được cõi thọ trăm tuổi, trải qua tám triều, cũng là sự ít có trong hoạn đồ”.

          Đối với quê hương, Nguyễn Như Đổ rất mực trân trọng ưu ái, Khi đỗ tiến sĩ, được vua ban áo mũ, ông đã về làng vinh quy, 18 năm sau khi được phong Lại bộ Thượng thư, ông đã về đình làng tạ thần và cung tiến đôi câu đối.

          Qua thời gian tồn tại và thăng trầm của lịch sử, di tích đình Đại Lan bị xuống cấp nghiêm trọng. Năm 2007 được sự quan tâm của Ủy ban nhân dân huyện Thanh Trì, chính quyền và nhân dân thôn Đại Lan xã Duyên Hà, đình được đầu tư kinh phí tu bổ, tôn tạo bằng nguồn ngân sách và xã hội hóa.

          Đình Đại Lan hiện tọa lạc trên một khu đất rồng nằm ở đầu làng gồm các đơn nguyên kiến trúc Đại bái và Hậu cung kết cấu theo kiểu chữ Đinh. Từ mặt sân bước lên năm bậc thềm là tới tòa Đại bái. Đại bái đình Đại Lan được chia làm ba gian hai dĩ với bốn mái đao cong, bờ nóc đắp lưỡng long chầu hổ phù đội mặt trời cách điệu, hai đầu bờ nóc là hai con rồng (Makara) ngậm bờ nóc, các mái đao được đắp đầu rồng cong hướng vào đình. Vào bên trong các bộ vì đỡ mái được làm theo kiểu thượng giá chiêng rường nách, hạ cốn, bẩy hiên, bẩy hậu  trên mặt bằng bốn hàng chân cột. Trang trí trên kiến trúc tại đình Đại Lan chủ yếu tập trung vào các đầu dư, cốn chạm rồng, tứ linh, tứ quý là các đề tài quen thuộc trong kiến trúc tín ngưỡng dân gian truyền thống.

          Nền các gian bên nhà Đại bái được tôn cao 20 cm để làm chỗ ngồi mỗi khi có việc làng, gian giữa được xây cao khoảng một ô chiếu để dùng vào việc hành lễ. Tuy kiến trúc muộn, song sự sắp đặt các di vật trong đình vẫn theo những quy tắc truyền thống, đem lại vẻ cổ kính và trang nghiêm cho ngôi đình.

                                                     Đình Đại Lan

Tại nhà Đại bái là đại tự, câu đối sơn son thếp vàng như: uy chấn hà phương (Uy chấn phương xa), Bảo quốc an dân (Bảo vệ đất nước, giữ yên cho dân)và nhiều hương án được chạm khắc tinh xảo, lộng lẫy với đề tài tứ linh, tứ quý…Đáng chú ý là hoành phi lớn dạng cuốn thư, bên dưới là cửa võng chạy suốt gian nhà, đây là hai di vật được trang trí bằng kỹ thuật chạm thủng, sơn son thếp vàng. Rồng chầu mặt trời, rồng cuốn thủy, long mã tranh châu…..được trang trí ở diềm bức hoành phi. Phần trên cửa võng là đôi rồng lớn chầu mặt hổ phù, hai bên trang trí các hình rồng phun nước, phượng, long mã…bên dưới hai hiện vật này là một phương án gỗ được trang trí tỉ mỉ bằng kỹ thuật chạm nổi các hình rồng lá cách điệu chầu hổ phù, chính giữa là rồng, phượng, hướng về hình mặt trời ở giữa…

          Hậu cung là một nếp nhà dọc ba gian mái lợp ngói mũi, phía trước có hệ thống cửa ngăn cách với Đại bái, chính giữa được xây bệ thờ trên đặt một khám lớn đặt long ngai, bài vị của các vị Thành hoàng làng cùng các đồ thờ tự khác. Mặt trước của khám được trang trí đậm đặc các đề tài truyền thống như hổ phù, rồng, hoa cúc, tứ linh, tứ quý, hoa dây…đây là một trong những di vật có giá trị nhất trong đình.

          Tại đình còn bảo lưu được nhiều di vật quý, như 11 đạo sắc phong từ triều Lê đến triều Nguyễn, và các cuốn thư, cửa võng, long ngai, bài vị, hương án, án văn, nhất là bốn bộ kiệu được làm từ thế kỷ XVII-XVIII. Đồ gốm sứ gồm hai bát hương gốm thời Lê – Mạc thế kỷ XVII, một chóe sứ thế kỷ XVIII, đôi lọ sứ thời Thanh…Đây là nguồn tư liệu quý giá giúp cho việc tìm hiểu về lịch sử ngôi đình và đời sống vật chất tinh thần của một làng quê truyền thống, minh chứng cho bề dày của vùng đất cổ ven sông Hồng.

Chùa Đại Lan

Chùa Đại Lan (Phổ Huệ Tự), vốn là nghè của làng Đại Lan, xã Duyên Hà. Bởi trước đây, chùa đã nhiều lần di chuyển và lần gần đây nhất vào năm 1959 khi sông Hồng đổi dòng, đất chùa bị sụt nên dân làng đã chuyển tượng Phật và đồ thờ vào nghè để thờ, từ đó nghè đã được chuyển thành chùa.

Xưa kia công trình nghè có quy mô kiến trúc lớn với kết cấu “tiền Nhất hậu Đinh”, tuy nhiên, do thời gian di tích đã bị xuống cấp nghiêm trọng. Năm 2010, chính quyền và Nhân dân địa phương đã tiến hành tu bổ thành Tam bảo chùa như hiện nay với kết cấu kiến trúc chữ Đinh tọa lạc trên một khu đất đầu làng, nằm sát đình làng, gồm tòa Tiền đường và Thượng điện nhưng vẫn bảo tồn được một số bức cốn của công trình cũ. Năm 2012, xây dựng nhà Tổ, nhà Mẫu. Năm 2013, xây dựng nhà Khách.

Tiền đường gồm năm gian và ba gian Thượng điện. Chùa xây tường gạch bao quanh, tường hồi bít đốc, cuối bờ chảy xây tay ngai giật cấp, hai mái lợp ngói ri, chính giữa bờ nóc đắp bức cuốn thư, bên trong đắp nổi chữ Hán ghi tên chữ của chùa, hai đầu bờ nóc đắp hai con rồng lá ngậm bờ nóc, hai tường hồi được xây tường lửng nối với hai cột trụ, đỉnh trụ đắp tứ phượng chụm đuôi vào nhau, xuống dưới là ô lồng đèn bên trong đắp nổi tứ linh (long, ly, quy, phượng), thân trụ được đắp các gờ nổi bên trong viết các đôi chữ Hán có nội dung ca ngợi cảnh đẹp của chùa và lòng từ bi hỷ xả, bác ái của đạo Phật. Vào bên trong, bộ vì đỡ mái tòa Tiền đường được làm theo kiểu: Thượng giá chiêng chồng rường, hạ cốn, kẻ hiên, bẩy hậu trên mặt bằng bốn hàng chân cột. Trang trí trên kiến trúc nhà Tiền đường được tập trung trên các đầu dư, con rường, kẻ và các bức cốn với đề tài trang trí chủ yếu là rồng, tứ linh, tứ quý, hoa cúc, bát bửu của đạo Nho…Đáng lưu ý nhất là hai bức cốn nách ở hai bên hồi thể hiện rồng mây bằng kỹ thuật chạm lộng. Rồng mây thể hiện quan niệm truyền thống của Nho giáo long vân khánh hội, Vân tòng long, phong tòng hổ là hình tượng cho sự gặp gỡ vua tôi. Sự có mặt của hai bức cốn trang trí long vân là rất phù hợp trong một kiến trúc nghè thờ các vị khoa bảng trước đây.

Hậu cung chùa Đại Lan được xây các bệ cao dần từ ngoài vào trong, trên bệ có đặt các pho tượng.  Trên cùng là bộ tượng Tam Thế. Lớp thứ hai là bộ tượng Di Đà Tam Tôn, với tượng A Di Đà ngồi giữa, hai bên là tượng Quan Thế Âm và tượng Đại Thế Chí. Lớp tiếp theo là tượng Di Đà Tiếp Dẫn, hai bên là tượng Thị Giả. Lớp thứ tư gồm cá tượng Quan Âm Chuẩn Đề, hai bên là tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ. Ngoài cùng là tượng Ngọc Hoàng và Phạm Thiên, Đế Thích, rồi đén tòa Cửu Long và tượng Thích Ca Sơ Sinh. Hai bên hồi Thượng điện có các tượng Quan Âm Tọa Sơn, Thổ Địa, Giám Trai, bộ tượng Thập Điện Diêm Vương. Ngoài nhà Tiền đường là hai ban thờ Đức Ông, Thánh Tăng và tượng Hộ Pháp Khuyến Thiện, Trừng Ác.

Bên cạnh hệ thống tượng Phật, chùa Đại Lan còn lưu giữ được một số hiện vật có giá trị: Cửa võng, hương án, bát hương thời Lê; 1 đôi lọ sứ thời Thanh, 2 quả chuông, 4 bức  hoành phi và 2 đôi câu đối.

Năm 1989, cụm di tích đình, chùa Đại Lan được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia.